Điểm sáng trong quá trình phục hồi kinh tế

Năm qua, kinh tế Việt Nam vẫn diễn biến trong bối cảnh thuận lợi khó khăn đan xen.

Tuy nhiên thực tế cho thấy rằng: thách thức vẫn còn rất nhiều; sức chống chịu và nguồn lực của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân giảm sút. 

Trong 11 tháng năm 2021, khu vực doanh nghiệp, hộ kinh doanh cá thể và các tổ chức kinh tế khác đã nỗ lực vượt qua những khó khăn, tạo nên bức tranh kinh tế với những gam màu sáng.

Bên cạnh đó, các tổ chức doanh nghiệp đều đặt niềm tin vững chãi vào sự điều hành linh hoạt, hiệu quả của Chính phủ, các địa phương và triển vọng kinh tế của đất nước.

Chỉ tính riêng trong tháng 11, 105,6 nghìn doanh nghiệp đã đăng ký thành lập mới, 40,5 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động

Những số liệu "sáng" này đã nâng tổng số doanh nghiệp thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong 11 tháng lên 146,1 nghìn doanh nghiệp.

Số SN đăng ký thành lập mới tháng 11/2021 đã cao hơn so với tháng 9/2021. Số DN đăng ký thành lập mới tháng 11/2021 đã cao hơn so với tháng 9/2021.

Khu vực doanh nghiệp đã chủ động tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm, trong 11 tháng năm 2021, chỉ số sản xuất công nghiệp ước tính tăng 3,6% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn tốc độ tăng 3% của cùng kỳ năm 2020. 

Ngoài ra, một số ngành công nghiệp trọng điểm và sản phẩm công nghiệp chủ lực đều có mức tăng cao.

Điểm sáng nổi bật phải nhắc tới đầu tư nước ngoài vào thị trường nước ta.

Mặc dù quý 3/2021, nền kinh tế "chao đảo" vì đại dịch nhưng trong 11 tháng năm 2021 vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký đạt 26,46 tỷ USD ở 18 lĩnh vực. 

Bức tranh kinh tế 11 tháng phản ánh ngành chế biến chế tạo phục vụ xuất khẩu là động lực chính và cũng là lĩnh vực dẫn đầu về thu hút vốn đầu tư nước ngoài khi công nghiệp chế biến, chế tạo có vốn FDI đăng ký lên đến 12,78 tỷ USD, chiếm 57,9% tổng vốn đăng ký.

Mặc dù chuỗi cung ứng đứt gãy, nhiều DN sản xuất hàng hóa gặp khó, thị trường tiêu thụ, phí vận chuyển và logistic tăng cao, nhưng kim ngạch xuất khẩu 11 tháng đạt tới 299,67 tỷ USD, tăng 17,5% so với cùng kỳ năm 2020.

Trong đó, kim ngạch xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 220,68 tỷ USD, tăng 20%, chiếm 73,6% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của nền kinh tế.

Cụ thể, 299,45 tỷ USD là con số ước tính cho kim ngạch nhập khẩu hàng hóa, tăng 27,5% so với cùng kỳ năm ngoái.

Nhập khẩu tư liệu sản xuất dự tính đạt 280,2 tỷ USD, tăng 27,9% và chiếm 93,6% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá.

Đây cũng là nhóm hàng dùng trong sản xuất, tạo bước đà cho tăng trưởng kinh tế.

Kết quả trong đầu tư trực tiếp nước ngoài và hoạt động xuất, nhập khẩu của nền kinh tế cho thấy, các nhà đầu tư nước ngoài đang đặt niềm tin rất lớn vào mắt xích Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu. 

Việt Nam được công đồng thế giới đánh giá là nhân tố quan trọng trong thúc đẩy thương mại quốc tế và cam kết mở rộng đầu tư vào Việt Nam trong giai đoạn tới.

Theo đánh giá cộng đồng thế giới, Việt Nam Việt Nam là nhân tố quan trọng trong thúc đẩy thương mại quốc tế và cam kết mở rộng đầu tư vào Việt Nam trong giai đoạn tới. Theo đánh giá cộng đồng thế giới, Việt Nam là nhân tố quan trọng trong thúc đẩy thương mại quốc tế và cam kết mở rộng đầu tư vào Việt Nam trong giai đoạn tới.

Với những điểm sáng về sản xuất, đầu tư và thương mại quốc tế trong 11 tháng năm 2021, phản ánh nền kinh tế đang từng bước phục hồi.

Dự báo kinh tế quý 4/2021 tăng từ 2-3% so với cùng kỳ năm 2020 và GDP cả năm tăng từ 1,6-2,1%. 

Nghẽn tắc cần giải quyết trong năm 2022

Trong 11 tháng năm 2021, có 106,5 nghìn doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh; trong đó, có 54,4 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi nền kinh tế, chiếm 51,5% số doanh nghiệp thành lập mới. 

Sự việc này phản ánh khu vực doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm đã bị tổn thương nghiêm trọng trước những khó khăn của kinh tế thế giới và trong nước.

Hơn nữa, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng 11 tháng giảm 10,4%, ảnh hưởng không nhỏ tới mục tiêu tăng trưởng của nền kinh tế.

Giải ngân vốn đầu tư công chậm, mới đạt 73,8% kế hoạch năm, giảm 8,7% so với cùng kỳ năm 2020.

Mặc dù kim ngạch xuất khẩu đạt con số ấn tượng với 299,67 tỷ USD, tăng 17,5% so với cùng kỳ năm 2020, nhưng kim ngạch xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước chỉ đạt gần 79 tỷ USD, chiếm 26,4% tổng kim ngạch xuất khẩu và chỉ tăng 11,1% so với mức tăng 20% của khu vực FDI. 

Nền kinh tế phụ trợ và liên kết giữa các khu vực kinh tế trong nước với khu vực FDI chưa được củng cố chặt chẽ.

Đáng quan tâm, nông nghiệp và thủy sản luôn là bệ đỡ trong những giai đoạn khó khăn của nền kinh tế cũng gặp không ít thách thức trong năm 2021.

Dù là bệ đỡ nhưng nông nghiệp và thủy sản cũng gặp nhiều khó khăn trong năm nay. Dù là bệ đỡ nhưng nông nghiệp và thủy sản cũng gặp nhiều khó khăn trong năm nay.

Giá vật tư nông nghiệp và thức ăn chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản tăng cao; dịch bệnh đối với chăn nuôi lợn và gia cầm diễn biến phức tạp; nhu cầu thị trường chưa phục hồi, giá sản phẩm đầu ra của nông nghiệp và thủy sản ở mức thấp khiến người chăn nuôi thua lỗ.

Đi cùng với đó là nhiều doanh nghiệp cũng gặp khó khăn trong sản xuất và lưu thông hàng hóa, khiến giá cả hàng hóa tăng cao, tạo áp lực lên lạm phát nền kinh tế dù chỉ số giá tiêu dùng thấp hơn so với mục tiêu là 4%.

Nghiêm trọng hơn, giá nguyên vật liệu, hàng hoá và dịch vụ thế giới tăng cao; giá dầu thô còn tiếp tục tăng trong những năm tới do nhu cầu tăng mạnh, trong khi nguồn cung hạn chế và thị trường dầu thô trải qua thời kỳ thiếu hụt nguồn cung dài nhất trong nhiều thập kỷ qua. 

Và thiếu hụt đầu tư thương nguồn trong khai thác dầu khi nhu cầu tăng là một dấu hiệu giá dầu cao kéo dài.

Kinh tế nước ta phụ thuộc nhiều vào nguyên vật liệu nhập khẩu, với tỷ lệ chi phí nguyên vật liệu nhập khẩu trong tổng chi phí nguyên vật liệu của toàn nền kinh tế là 37%.

Chi phí xăng dầu chiếm khoảng 3,52% trong tổng chi phí sản xuất của toàn nền kinh tế, nhất là khi giá xăng dầu thế giới tăng sẽ làm tăng giá nguyên vật liệu nhập khẩu, nguyên nhiên vật liệu trong nước.

Bên cạnh đó, các gói hỗ trợ và kích cầu đầu tư, hỗ trợ doanh nghiệp cũng tạo ra sức ép rất lớn lên lạm phát trong năm 2022.

Cơ hội vực dậy

Thứ nhất, Việt Nam sẽ tập trung cải thiện cả về động lực và kết quả phục hồi, phát triển kinh tế so với năm 2021

Với kinh nghiệm, năng lực, khả năng ứng phó dịch bệnh tiếp tục được nâng lên, khả năng chủ động sản xuất được vaccine ngừa Covid-19 sẽ sớm đảm bảo mục tiêu tiêm vaccine cho toàn dân, đất nước sẽ sớm trở lại trạng thái bình thường và nền kinh tế mau chóng hồi phục.

Bao phủ vaccine chậm nhất vào đầu năm 2022 là một trong những điều kiện cần để phục hồi và phát triển nền kinh tế.

Nhưng nước ta sẽ tiếp tục đối diện với sự gia tăng áp lực lạm phát, trần nợ công và nợ xấu ngân hàng, những hạn chế về khả năng đáp ứng nhân lực, trang thiết bị, hạ tầng của hệ thống y tế cơ sở, trong khi số lượng người cần được hỗ trợ y tế, an sinh xã hội là rất lớn.

Việc phục hồi sản xuất, kinh doanh có thể bị cản trở bởi khó khăn về tài chính và thị trường tiêu thụ.

Khu vực tư nhân và FDI có cơ hội phục hồi sản xuất kinh doanh nhờ sự hồi phục cả phía cung, phía cầu, sự thích ứng của khu vực doanh nghiệp và các biện pháp hỗ trợ của Chính phủ.

Thứ hai, tác động trực tiếp của các gói hỗ trợ kinh tế được tăng cường

Việt Nam cần tăng cường khả năng phục hồi thông qua một hệ thống trợ giúp xã hội mạnh mẽ và linh hoạt trên cơ sở phân bổ thêm vốn cho các chương trình trợ giúp xã hội; xây dựng một cơ quan đăng ký xã hội quy mô lớn và áp dụng kỹ thuật số.

Điều này nhằm nhanh chóng xác định những người dễ bị tổn thương; mở rộng quy mô thanh toán điện tử, để tiếp cận một cách hiệu quả những người thụ hưởng đã được xác định.

Giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, nâng cao tính tự chủ, khả năng chống chịu, thích ứng của nền kinh tế; phấn đấu GDP tăng 6-6,5%, tốc độ tăng CPI bình quân khoảng 4%; bội chi ngân sách Nhà nước khoảng 4% GDP... trong cả năm 2022 cũng là nhiệm vụ cấp thiết.

Thứ ba, nhiều giải pháp được thực hiện đồng bộ

Trong bối cảnh dịch bệnh có thể kéo dài, các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu được đặt ra là tập trung thực hiện linh hoạt, hiệu quả mục tiêu vừa phòng, chống dịch vừa phục hồi, phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm sức khỏe, tính mạng nhân dân và an sinh xã hội.

Tiếp đến, cần kiểm soát lạm phát, hạn chế nợ xấu phát sinh, duy trì tỷ lệ nợ xấu nội bảng dưới 3%; đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, xuất khẩu, đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công.

Chính phủ cũng cần đẩy mạnh kiểm soát lạm phát và hạn chế các khoản nợ xấu nhằm vực dậy kinh tế một cách nhanh chóng. Chính phủ cũng cần đẩy mạnh kiểm soát lạm phát và hạn chế các khoản nợ xấu nhằm vực dậy kinh tế một cách nhanh chóng.

Các chính sách hỗ trợ phát triển cần chú ý tạo động lực kích thích cho cả tổng cung và tổng cầu; củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô và thúc đẩy cải cách thể chế kinh tế sâu rộng hơn, tạo thêm “sức bật” cho doanh nghiệp.

Việt Nam - điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư

Để tiếp tục giữ vững vị trí trên, nền kinh tế Việt Nam cần áp dụng những biện pháp dưới đây:

Thứ nhất, Việt Nam cần triển khai, thực hiện tốt, an toàn chiến dịch bao phủ diện rộng cho toàn dân tiêm vaccine

Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương khẩn trương hoàn thành tiêm vaccine cho toàn dân trong độ tuổi tiêm chủng để sớm đạt được tỷ lệ tiêm chủng miễn dịch cộng đồng; ưu tiên tiêm cho lực lượng lao động khu vực doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể để hai khu vực sản xuất này sớm quay lại sản xuất kinh doanh.

Thứ hai, chính sách tài khóa và tiền tệ cần hài hòa, chú trọng đến chính sách tài khóa hỗ trợ doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể vượt qua khó khăn

Sử dụng chính sách tiền tệ đúng liều lượng, hợp lý, không quá chú trọng vào chính sách tiền tệ để tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy tăng trưởng vì hỗ trợ tín dụng, hạ lãi suất cho doanh nghiệp sẽ dẫn tới gia tăng lạm phát và rủi do cho hệ thống ngân hàng.

Thứ ba, nâng cao năng lực giải ngân và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư

Đặc biệt, thị trường ta cần chú trọng nâng cao hieeujq ảu sử dụng vốn đầu tư công và khai thác thế mạnh các Hiệp định thương mại ký kết. 

Điều này nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thương mại quốc tế, đẩy mạnh xuất khẩu, tăng cường cơ hội thu hút và tận dụng dòng vốn FDI.

Thứ tư, thực hiện nhanh và hiệu quả việc cơ cấu lại nền kinh tế

Cơ cấu lại nội bộ từng ngành theo hướng phát huy lợi thế so sánh và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu; tập trung nội lực, thúc đẩy động lực phát triển những sản phẩm có lợi thế so sánh, sức cạnh tranh và giá trị gia tăng cao.

Thứ năm, chủ động chuẩn bị đầy đủ các điều kiện thúc đẩy sản xuất kinh doanh, bảo đảm nguồn cung và lưu thông hàng hóa, giảm áp lực lạm phát

Đối với các mặt hàng thiếu hụt trong ngắn hạn cần có chính sách và giải pháp cắt giảm chi phí sản xuất, nhập khẩu kịp thời nguyên vật liệu; tăng cường thanh tra, kiểm tra, kiên quyết xử lý khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật.

Ngoài ra, chủ động cung cấp thông tin thị trường lao động, xây dựng kế hoạch, chương trình phối hợp giữa các địa phương trong việc cung ứng và tuyển dụng lao động để tạo sự kết nối, liên thông trong chuỗi cung ứng lao động giữa các địa phương...

Thứ sáu, tăng cường triển khai và thực hiện chuyển đổi số trong cải cách thể chế và thủ tục hành chính rất quan trọng

Chuyển đổi số trong cải cách thể chế và thủ tục hành chính rất quan trọng.

Trong khi đó, thủ tục hành chính truyền thống và ứng dụng công nghệ trong giải quyết thủ tục hành chính hiện nay chưa đáp ứng yêu cầu và đòi hỏi của người dân, doanh nghiệp trong bối cảnh mới. 

Vì vậy, cần có sự hợp tác, phối hợp giữa các cơ quan, bộ, ngành, địa phương thành lập cơ chế phân quyền nhằm tạo sự thuận lợi không chỉ trong nước, mà còn trên trường quốc tế.

Thứ bảy, tạo dựng chính sách liên thông, kết nối các chuỗi cung ứng hàng hóa, dịch vụ đi kèm với sự đồng thuận tại các chính quyền địa phương, giải quyết tình trạng tình trạng “cát cứ” không thống nhất gây cản trở

Nhà nước cần đảm bảo tối đa lưu thông hàng hóa, lao động trở lại phục vụ việc phục hồi sản xuất sau dịch bệnh, tránh tình trạng “cát cứ” không thống nhất gây cản trở.

Đồng thời bảo đảm cung ứng đầy đủ nguyên, vật liệu, năng lượng, nhằm phục hồi lại các chuỗi cung ứng.

Về xuất nhập khẩu, cần tiếp tục theo dõi chặt chẽ tình hình dịch bệnh và trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia để tham mưu Chính phủ các giải pháp điều hành ứng phó với các yếu tố bất lợi.

Chú trọng công tác triển khai thực hiện các Hiệp định Thương mại tự do nói chung, nhất là các FTA thế hệ mới. 

Triển khai các chương trình kích cầu tiêu dùng trong nước như: tổ chức tháng khuyến mại trên toàn quốc, các chương trình bán hàng lưu động, chương trình bình ổn thị trường… và tăng cưng các hoạt động kết nối cung cầu.

Theo Tạp chí tài chính