Báo cáo của WB đã đưa ra ba dự báo về dân số Việt Nam cho 50 năm tới (2019–2069).

Các tham số về cơ cấu dân số (các đặc trưng và các mức sinh và tử) của ba dự báo đều như nhau và được lấy từ báo cáo Viễn cảnh Dân số Thế giới năm 2019 (UNDESA 2019).

Sự chênh lệch giới tính rõ rệt

Báo cáo giả định không có di cư quốc tế, đồng thời sử dụng phân bố giới tính và độ tuổi lấy từ quần thể của Tổng điều tra Dân số 2019 làm chuẩn cho các mô phỏng.

Theo báo cáo đánh giá chung, dân số Việt Nam vẫn có tỷ lệ nữ trội hơn đến năm 2069.

Các mức tỷ lệ giới tính ở độ tuổi trưởng thành có thể chuyển thành số đàn ông dư thừa.

Phân tích này cho thấy lợi thế tuổi thọ của nữ giới không bị mất đi do số ca sinh bé trai cao hơn ở các thế hệ sau.

Đàn ông hiện chiếm đa số dân số trưởng thành, nhưng tỷ lệ giới tính ở độ tuổi trưởng thành còn tăng thêm trong các thập kỷ tới. Đàn ông hiện chiếm đa số dân số trưởng thành, nhưng tỷ lệ giới tính ở độ tuổi trưởng thành còn tăng thêm trong các thập kỷ tới.

Các chuyên gia của WB nhận định, tình trạng mất cân bằng cơ cấu dân số sẽ để lại những hậu quả xã hội nghiêm trọng, khi hàng triệu đàn ông bị loại khỏi thị trường hôn nhân.

Ở kịch bản “giảm”, khoảng 1,3 triệu đàn ông độ tuổi 20-39 bị dôi dư vào năm 2044, tương ứng với 8,1% đàn ông bị dư so với phụ nữ cùng nhóm tuổi.

Mức dư sẽ tăng lên đến 1,7 triệu vào năm 2049 ở nhóm tuổi từ 20-49 tuổi. Con số này sẽ giảm dần sau đó, nhưng dự báo của chúng tôi vẫn cho thấy có 1,3 triệu đàn ông ở nhóm tuổi 20-49 bị dôi dư vào năm 2069.

Tương tự với kịch bản dự báo "phản thực tế", ở mức đỉnh vào năm 2054, Việt Nam có thêm khoảng 1,7 triệu đàn ông ở độ tuổi 20-49, trong đó 750.000 tăng thêm do tác động cộng dồn của tỷ số giới tính khi sinh (TSGTKS) chênh lệch trước đó.

World Bank đánh giá, mức độ mất cân bằng giới tính ở độ tuổi trưởng thành lớn tới mức những điều chỉnh trực tiếp thông qua nhập cư phụ nữ, xuất cư đàn ông, hoặc thay đổi xu hướng hôn nhân cũng không thể xóa đi tác động của tình trạng mất cân bằng nghiêm trọng về nam nữ ở độ tuổi kết hôn.

Báo cáo cho biết thêm, số trẻ em gái không được sinh ra ở Việt Nam ước lên đến 45.900 mỗi năm (6,2% ca sinh bé gái), trong đó tỷ lệ trẻ em gái không được sinh ra lớn nhất là 42% ở đồng bằng sông Hồng, tiếp theo là miền núi và trung du Bắc Bộ.

Các vùng miền cao của Việt Nam có sự chênh lệch về giới tính lớn hơn các khu vực khác. Các vùng miền cao của Việt Nam có sự chênh lệch về giới tính lớn hơn các khu vực khác.

Tuy nhiên, tình hình đang có dấu hiệu cải thiện và TSGTKS dự kiến giảm như có thể thấy ở một số tỉnh.

Dự báo Bayes gần đây khẳng định TSGTKS giảm dần trong 15 năm tới và đạt mức bình thường vào năm 2039.

Tác động dân số đầy đủ của mất cân bằng giới tính khi sinh (MCBGTKS) sẽ chỉ nhận thấy được trong 30 năm tới, với khả năng thừa 1,7 đàn ông vào năm 2050.

Nguyên nhân nào dẫn đến mất cân bằng giới tính?

Yếu tố cung, liên quan đến khả năng tiếp cận công nghệ lựa chọn giới tính, ví dụ như siêu âm và nạo phá thai đã hình thành việc MCBGTKS.

Việc này còn hình thành do áp lực giảm dân số, cha mẹ không được sinh thêm để đạt các mục tiêu sinh con trên cơ sở giới.

Nhiều gia đình còn giữ quan điểm quan trọng về giới tính, mang tâm lý chuộng con trai cũng gây nên vấn đề này.

Báo cáo đánh giá, khả năng không có con trai sẽ tăng lên khi mức sinh giảm do tâm lý các hộ gia đình ở Việt Nam muốn sinh ít con hơn để dành thêm nguồn lực và thời gian cho con cũng như phù hợp với mức sống.

Số liệu cho thấy, tổng mức sinh giảm từ 6,5 xuống còn 2 con trên mỗi phụ nữ trong giai đoạn từ năm 1965-2000.

Khảo sát gần nhất từ năm 2018 cho biết, mức sinh chung của một phụ nữ Việt Nam là 2,05 trẻ.

MCBGTKS do nhiều yếu tố hình thành, việc mong cầu con trai cũng còn nhiều trong tư tưởng các gia đình Việt Nam. MCBGTKS do nhiều yếu tố hình thành, việc mong cầu con trai cũng còn nhiều trong tư tưởng các gia đình Việt Nam.

Về giới tính mong muốn của trẻ sinh sau cùng đại đa số (68,7%) phụ nữ cho hay, họ không coi trọng việc sinh con trai hay gái. Tuy nhiên, 21,7% số người được hỏi cho rằng thích có con trai hơn, cao gấp đôi số người cho biết thích có con gái hơn (9,6%).

Về khả năng tiếp cận công nghệ lựa chọn giới tính, báo cáo chỉ ra rằng, việc lựa chọn giới tính trở thành lĩnh vực kinh doanh được đà phát triển mạnh và phát đạt ở Việt Nam.

Các hình thức công nghệ tiên tiến hơn về phân loại tinh trùng, lựa chọn giới tính trước khi thụ thai, và lựa chọn giới tính trước khi tạo hoặc cấy phôi, đang trên đà phát triển.

Theo đó, khả năng tiếp cận các công nghệ hỗ trợ sinh sản trên thực tế đã được ghi nhận thông qua các số liệu thống kê chính thức từ các khảo sát dân số định kỳ của Tổng cục Thống kê.

Tỷ lệ phụ nữ cho biết đã biết giới tính thai nhi trước khi sinh tăng tới 83% vào năm 2013. Khảo sát năm 2018 cho thấy 32% số phụ nữ biết giới tính thai nhi trước tuần thứ 15 của thai kỳ và thêm 65,7% biết vào thời điểm giữa tuần thứ 15 và tuần thứ 28.

Mất cân bằng giới tính dẫn đến tình trạng thiếu vợ tại Việt Nam

Xét trên toàn châu Á, Việt Nam chỉ đứng sau Trung Quốc về tỉ lệ mất cân bằng giới. Ở đất nước đông dân nhất thế giới từng có thời điểm tỉ lệ bé trai/ bé gái lên tới 140/100, còn tại Việt Nam là 117-118 bé trai/ 100 bé gái.

Việt Nam có thể sẽ có 3 đến 4,3 triệu đàn ông không thể lấy được vợ và có thể phải Việt Nam có thể sẽ có 3 đến 4,3 triệu đàn ông không thể lấy được vợ và có thể phải 'nhập khẩu' vợ từ châu Phi.

Theo phân tích của nguyên Phó Tổng cục trưởng, độ tuổi kết hôn trung bình của nam giới tại Việt Nam là 27,1 tuổi. Kể từ năm 2033, tình trạng thiếu phụ nữ sẽ xảy ra và sẽ tiếp tục tích lũy qua từng năm.

Lãnh đạo nữ gia tăng bất chấp việc giới tính nam áp đảo

Tỉ lệ phụ nữ nắm giữ các vị trí lãnh đạo cấp cao trong các doanh nghiệp tầm trung trên toàn cầu đã đạt 31% dù cho đại dịch COVID-19 đang ảnh hưởng đến nền kinh tế toàn thế giới theo báo cáo thường niên của Grant Thornton International.

Con số hiện nay cũng vượt qua ngưỡng quan trọng 30%, là ngưỡng tối thiểu cần thiết để thay đổi quy trình ra quyết định, theo các nghiên cứu cho thấy. Tất cả các khu vực được khảo sát ngoại trừ Châu Á Thái Bình Dương (28%) hiện đã vượt qua mốc 30% quan trọng này.

Tỷ lệ nữ Giám đốc điều hành (CEO) tăng 6 điểm phần trăm lên 26%, nữ Giám đốc tài chính (CFO) cũng tăng 6 điểm phần trăm lên 36% và nữ Giám đốc vận hành (COO) tăng 4 điểm phần trăm lên 22%, theo nghiên cứu của Grant Thornton International.

Bất chấp đại dịch COVID-19, nữ lãnh đạo tại Việt Nam vẫn tiếp tục tăng mạnh và đứng hàng top khu vực Châu Á Thái Bình Dương. Bất chấp đại dịch COVID-19, nữ lãnh đạo tại Việt Nam vẫn tiếp tục tăng mạnh và đứng hàng top khu vực Châu Á Thái Bình Dương.

Tỷ lệ phụ nữ giữ các vị trí cấp cao như quản trị nhân sự giảm nhẹ ở mức 38% (giảm 2 điểm phần trăm so với năm 2020) và có xu hướng đi xuống kể từ năm 2019.

Các vị trí hàng đầu thường được phụ nữ đảm nhận trong doanh nghiệp tại Việt Nam năm 2021 là Giám đốc tài chính với tỉ lệ 60% (tăng từ 32% của năm 2020) đưa Việt Nam đứng số 1 tại Châu Á Thái Bình Dương.

Vị trí Giám đốc Nhân sự đứng thứ hai với 59%, đây cũng là một vị trí rất phổ biến tại các khu vực còn lại của Châu Á Thái Bình Dương.

Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể trong tỉ lệ phụ nữ giữ vị trí Giám đốc điều hành với mức tăng từ 7% lên 20% vào năm 2021 (xếp thứ 7 trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương).

Để đưa tỉ số giới tính khi sinh về ngưỡng cân bằng, ông Tân cho rằng, giải pháp căn bản, lâu dài vẫn là truyền thông. Song song đó cần nâng cao vị thế của phụ nữ trên mọi lĩnh vực, việc mà hiện nay phụ nữ Việt Nam đang làm rất tốt.

Ông Tân cho biết luật Dân số đang trong quá trình lấy ý kiến, nghiêm cấm lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình thức, khi vi phạm sẽ bị xử phạt rất nặng, có thể tịch thu giấy phép hành nghề vĩnh viễn.

Theo CafeBiz, Grant Thornton