Tác động của đại dịch COVID-19 đối với ngành nông nghiệp trong nước

Ông Nguyễn Việt Long - phó tổng giám đốc, tư vấn, EY Consulting VN chia sẻ:

Dù khó khăn, nông nghiệp vẫn tiếp tục thực hiện vai trò bệ đỡ của nền kinh tế trong giai đoạn dịch bệnh bùng phát tại Việt Nam.

Theo báo cáo Tình hình kinh tế xã hội quí 3 và chín tháng năm 2021, GDP 9 tháng đầu năm 2021 chỉ tăng 1,42% so với cùng kỳ năm trước.

Song, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản vẫn tăng 2,74%, cao hơn mức trung bình và đóng góp 23,52% vào mức tăng trưởng chung của nền kinh tế.

Ông Nguyễn Việt Long - phó tổng giám đốc, tư vấn, EY Consulting VN. Ông Nguyễn Việt Long - phó tổng giám đốc, tư vấn, EY Consulting VN.

Tuy nhiên, theo nghiên cứu của EY Consulting VN:

Dưới tác động của đại dịch và các biện pháp giãn cách xã hội, chuỗi cung ứng ngành nông nghiệp bị ảnh hưởng nhiều nhất ở khâu phân phối, với các vấn đề tồn tại nhiều năm của ngành là logistics.

Cụ thể, điểm yếu trong các khâu như lưu trữ hàng hóa, bao bì, đóng gói, kho bãi, thủ tục hải quan, luân chuyển hàng hóa đã và đang cản trở việc lưu thông hàng nông sản tới tay người tiêu dùng.

Ngoài ra, đối với hoạt động xuất khẩu, một số sản phẩm nông sản chưa đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế và truy xuất nguồn gốc cũng phần nào cản trở hàng nông sản Việt tiếp cận người tiêu dùng quốc tế.

Những khó khăn trong logistics đã ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh

Theo khảo sát, ngoài khó khăn do các đơn hàng bị hủy hoặc giảm, có tới 44% doanh nghiệp, hợp tác xã (HTX) và nông dân được phỏng vấn cho biết doanh nghiệp của họ bị ảnh hưởng.

Đáng chú ý, 13% trong đó cho biết những khó khăn trong logistics đã ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của họ.

Đối với hoạt động xuất nhập khẩu, thời gian vận chuyển kéo dài và chi phí logistics tăng cao hơn nhiều lần do thiếu phương tiện vận chuyển, thiếu container rỗng.

Việc thiếu công nghệ sơ chế và bảo quản lạnh nông sản cũng khiến doanh nghiệp, HTX và nông dân bị động khi đưa ra các kịch bản ứng phó khi nông sản không kịp tiêu thụ hoặc xuất khẩu.

Cảng Cát Lái và các tuyến đường xung quanh hiện đã quá tải. Việc thiếu công nghệ sơ chế và bảo quản lạnh nông sản cũng khiến nguồn cung bị động.

Chi phí logistics trong nước đội giá tăng cao

Hệ thống logistics kém phát triển đã và đang làm gia tăng chi phí logistics đối với các sản phẩm nông nghiệp.

Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới năm 2020, chi phí logistics ở Việt Nam bằng khoảng 20,9 - 25% GDP.

Mức chi phí này cao hơn Thái Lan 6%, Malaysia 12%, còn so với Singapore thì cao hơn tới 3 lần.

Một trong những lý do chính khiến hệ thống logistics trong nước chưa thực sự hiệu quả là do Việt Nam thiếu mạng lưới được kết nối phù hợp, khoa học.

Lấy ví dụ như các cảng ở đồng bằng sông Cửu Long đều chưa được kết nối với tuyến đường sắt, cửa sông nên không thể tiếp nhận các tàu có tải trọng từ 10.000-20.000 DWT.

Cảng Cát Lái và các tuyến đường xung quanh hiện đã quá tải trong khi cảng này chiếm hơn 92% khối lượng container xuất khẩu của khu vực đồng bằng sông Cửu Long.

Hơn nữa, quy mô của các trung tâm logistics rất nhỏ, hầu hết dưới 10 héc ta. Các trung tâm ở cấp vùng chưa được phát triển.

Cảng Cát Lái và các tuyến đường xung quanh hiện đã quá tải. Cảng Cát Lái và các tuyến đường xung quanh hiện đã quá tải.

Với cơ sở vật chất hạn chế, ví dụ như việc thiếu các trung tâm chiếu xạ, nông sản đang phải chịu thêm chi phí logistics và thời gian vận chuyển để đáp ứng các yêu cầu xuất khẩu.

Còn nhớ vào thời điểm tháng 2-2021 khi dịch COVID-19 bùng phát tại Hải Dương, Hải Phòng - địa phương giáp ranh đã dừng tiếp nhận hàng hóa từ tỉnh này.

Trong khi đây vừa là thị trường tiêu thụ, vừa thuộc tuyến đường vận chuyển hàng hóa của tỉnh.

Gây tắc nghẽn chuỗi cung ứng, hàng hóa ứ đọng, hư hỏng khiến doanh nghiệp, nông dân thiệt hại nặng nề.

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, chỉ riêng việc tắc nghẽn lưu thông khiến nông sản Hải Dương thời điểm đó ước tính thiệt hại 300-400 tỉ đồng.

Chỉ riêng việc tắc nghẽn lưu thông khiến nông sản Hải Dương khi đó ước tính thiệt hại 300-400 tỉ đồng. Chỉ riêng việc tắc nghẽn lưu thông khiến nông sản Hải Dương khi đó ước tính thiệt hại 300-400 tỉ đồng.

Đề xuất các giải pháp khơi thông chuỗi cung ứng

Để giảm nhẹ tác động của COVID-19 tới ngành nông nghiệp, cũng như giải quyết vấn đề cố hữu của nền kinh tế là chuỗi cung ứng.

Cần có cơ chế để đẩy nhanh việc nâng cấp mạng lưới logistics, cũng như sự đầu tư của nhà nước và tư nhân vào cơ sở hạ tầng.

Cần có cơ chế để đẩy nhanh việc nâng cấp mạng lưới logistics. Cần có cơ chế để đẩy nhanh việc nâng cấp mạng lưới logistics.

Song, theo Báo cáo logistics Việt Nam năm 2019 của Bộ Công Thương, có tới 70% doanh nghiệp vận tải và logistics đang hoạt động có quy mô nhỏ và vừa, không có nguồn lực cần thiết để đầu tư cho hệ thống kho bãi hoặc phương tiện vận tải.

Điều này đang góp phần làm tăng chi phí logistics trong nước.

Thành lập một CFC là việc làm cấp thiết hiện nay

Cần có chính sách khuyến khích thành lập các trung tâm dịch vụ chia sẻ (Common Facility Center – CFC) cho nông nghiệp.

Đây là trung tâm cung cấp cho nông dân, HTX và doanh nghiệp nhỏ và vừa các loại dịch vụ hỗ trợ thông dụng và cần thiết nhất.

Trung tâm cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho các khía cạnh sản xuất, kiểm tra, thử nghiệm vật liệu và sản phẩm, sơ chế, logistics, chia sẻ thông tin, kết nối người mua – người bán, tiếp thị và đào tạo.

Mục tiêu của các CFC này là giải quyết phần còn thiếu trong khâu logistics của một mặt hàng cụ thể ở một khu vực xác định.

Trên thực tế, ở Việt Nam đã có những trung tâm logistics, chiếu xạ, phòng lab xét nghiệm tiêu chuẩn xuất khẩu, nhưng các cơ sở này đều nằm rải rác, gián tiếp gây đội chi phí sản xuất của doanh nghiệp.

Việt Nam đã có những trung tâm logistics, chiếu xạ, phòng lab xét nghiệm tiêu chuẩn xuất khẩu nhưng nằm rải rác nhiều nơi. Việt Nam đã có những trung tâm logistics, chiếu xạ, phòng lab xét nghiệm tiêu chuẩn xuất khẩu nhưng nằm rải rác nhiều nơi.

Bởi vậy, một CFC có thể là bài toán giải quyết điểm nghẽn về logistics.

Giá trị mà CFC mang lại cho cả nguồn cung và nguồn cầu

Trong bối cảnh hành vi người tiêu dùng đã và đang thay đổi, dần dịch chuyển sang hình thức mua sắm trực tuyến, họ cần hàng hóa chất lượng, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.

CFC sẽ góp phần đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của nhóm khách hàng mới này.

Hơn nữa, việc thành lập một trung tâm như CFC cũng góp phần hỗ trợ phân phối lại giá trị trong chuỗi giá trị ngành nông nghiệp.

Đồng thời đáp ứng mục tiêu của Chính phủ nhằm:

Chuyển dần từ nền sản xuất nông nghiệp sang nền kinh tế nông nghiệp, tức phân bổ lại lợi nhuận trong toàn bộ chuỗi giá trị ngành nông nghiệp, đặc biệt là nông dân, những người phải chịu rủi ro nhất nhưng nhận được giá trị thấp nhất trong toàn chuỗi.

Nông dân phải chịu rủi ro nhất nhưng nhận được giá trị thấp nhất trong toàn chuỗi. Nông dân phải chịu rủi ro nhất nhưng nhận được giá trị thấp nhất trong toàn chuỗi.

Thành lập một trung tâm lớn và tập trung liệu có khả thi trong bối cảnh hiện nay?

Để đầu tư một trung tâm như vậy đòi hỏi nguồn lực rất lớn.

Hiện nay, cơ sở hạ tầng cơ bản như nước, điện, giao thông vận tải ở một số khu vực còn chưa phát triển.

Đây có thể là một trong những thách thức trong việc lựa chọn địa điểm đặt CFC, đồng thời cũng là nguyên nhân làm tăng chi phí thành lập và vận hành trung tâm.

Cơ sở hạ tầng cơ bản như nước, điện, giao thông vận tải ở một số khu vực còn chưa phát triển. Cơ sở hạ tầng cơ bản như nước, điện, giao thông vận tải ở một số khu vực còn chưa phát triển.

Hơn nữa, nhận thức của nông dân về công nghệ và lợi ích của CFC còn hạn chế, có thể dẫn đến việc ít sử dụng các trung tâm này.

Do đó, cần thực hiện các chương trình nâng cao năng lực và nhận thức, cùng với các cơ chế khuyến khích sử dụng các trung tâm trong thời gian đầu.

Thực tế, mô hình CFC đã áp dụng rất thành công tại một số nước như Ấn Độ, Bangladesh.

Ví dụ, tại Ấn Độ, chính phủ có một số chương trình ưu đãi khuyến khích CFC hoặc phát triển cụm ngành cụ thể như dệt may, nông nghiệp, dược phẩm như Chương trình phát triển cụm Doanh nghiệp siêu nhỏ và nhỏ (MSE - CDP), Đề án cụm chế biến nông sản.

Chính phủ Ấn Độ có một số chương trình ưu đãi khuyến khích CFC hoặc phát triển cụm ngành. Chính phủ Ấn Độ có một số chương trình ưu đãi khuyến khích CFC hoặc phát triển cụm ngành.

Dựa trên phân tích thông lệ ở các nước đã phát triển CFC thành công:

Dòng vốn đầu tư ban đầu có thể đến từ nhà nước, trước khi có những chương trình khuyến khích đầu tư từ khu vực tư nhân, đặc biệt là FDI, các tổ chức phát triển và các nhà tài trợ.

Cũng theo nghiên cứu của EY Consulting VN:

Trước mắt nên thành lập CFC thí điểm bởi việc phát triển mạng lưới các CFC là một dự án dài hạn.

Mô hình CFC thí điểm này nên được phát triển cho toàn bộ các mặt hàng dễ hư hỏng, dễ gặp rủi ro gián đoạn thị trường do dịch bệnh như dịch COVID-19.

Theo Kinh tế Sài Gòn