Trong thời gian 10 năm trở lại đây, xu hướng M&A ngày càng bùng nổ giữa các nhà đầu tư Nhật Bản và doanh nghiệp Việt Nam, với hàng tỷ USD vốn Nhật được bỏ ra.
Cho đến hiện tại, nhiều cái tên lớn từ Nhật Bản đã sở hữu các thương hiệu Việt Nam hàng đầu. Các ngành nghề trong hoạt động M&A cũng vô cùng đa dạng, từ siêu thị, thời trang đến dược phẩm, hàng tiêu dùng,...
Tuy nhiên, đại dịch CVODI-19 bùng phát nghiêm trọng đã làm chậm quá trình M&A này. Thắc mắc đặt ra là thị trường này có thể tiếp tục bùng nổ sau khi đại dịch qua đi hay không.
Trao đổi với Trí thức trẻ, ông Masataka Sam Yoshida - Tổng giám đốc RECOF (công ty tư vấn mua bán và sáp nhập cho các doanh nghiệp Nhật Bản) cũng có những phân tích riêng về vấn đề này.
Xu hướng M&A tại Việt Nam của các nhà đầu tư Nhật Bản thời gian gần đây và những ảnh hưởng từ đại dịch
Tổng giám đốc RECOF cho biết, năm 2020 có 23 giao dịch M&A giữa Việt Nam và Nhật Bản được công bố, gồm 15 thương vụ nửa đầu năm và 8 thương vụ được thực hiện nửa cuối năm.
Trong đó, các thương vụ lớn nhất diễn ra trong thời gian gần đây đều thuộc lĩnh vực tài chính với hai thương vụ điển hình.
Đầu tiên là thương vụ Bảo hiểm Nhân thọ Sumitomo đầu tư khoảng 173 triệu USD để tăng cổ phần vào Tập đoàn Bảo Việt. Tiếp đến là khoản đầu tư của SMBC Consumer Finance vào FE Credit.
Bên cạnh đó, cũng có một vài thương vụ thuộc lĩnh vực bất động sản được thực hiện. Tuy nhiên, hoạt động M&A trong ngành này thời gian thời gian gần đây đã kém sôi động hơn những năm trước.
Ông Masataka Sam Yoshida cho biết, trước tình hình phức tạp của dịch bệnh tại Nhật Bản cũng như làn sóng dịch mới tại Việt Nam, các nhà đầu tư Nhật Bản vẫn quan tâm đến Việt Nam.
Theo đó, trong nửa đầu năm 2021, với 13 giao dịch M&A được công bố, Việt Nam đứng thứ 4 trong nhóm các quốc gia trên thế giới có doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư sau Mỹ, Singapore và Anh.
“Tuy nhiên, với những đợt đóng cửa do đại dịch trong hơn một năm rưỡi vừa rồi, tôi cũng nhận thấy rằng nhiều nhà đầu tư Nhật Bản đang dần giảm kỳ vọng.”
Trước tình hình này, ông Masataka Sam Yoshida hy vọng rằng Việt Nam sẽ kiểm soát được tình hình dịch bệnh trong thời gian tới. Ông cho biết:
“Tôi nghĩ tác động lớn nhất đến từ quy định về đóng cửa biên giới và các hạn chế đi lại. Điều này đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động M&A xuyên biên giới, đặc biệt là các nhà đầu tư mới tại Việt Nam.”
Trong hai năm trở lại đây, hầu hết các giao dịch đều đến từ những tập đoàn lớn của Nhật Bản có cơ sở tại Việt Nam hoặc những doanh nghiệp có kinh nghiệm mua lại công ty Việt Nam.
Theo Tổng giám đốc RECOF, trước khi đưa ra quyết định, các nhà đầu tư Nhật Bản rất quan tâm đến việc gặp gỡ chủ sở hữu và đội ngũ quản lý, đồng thời cũng đặc biệt chú ý đến việc xem xét nhà máy, văn phòng, cửa hàng,…
Không chỉ vậy, dịch bệnh còn kéo dài quá trình đàm và gây ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến kết quả của thương vụ:
“Có những thương vụ tôi nghĩ rằng đến hiện tại không đi vào đâu chỉ vì các bên chưa có cơ hội gặp trực tiếp.”
Mặt khác, phương thức đàm phán các giao dịch M&A trong đại dịch cũng có nhiều sự thay đổi với việc tận dụng công nghệ số để họp bàn trực tuyến.
Ông Masataka Sam Yoshida cũng cho rằng:
“Tôi nghĩ là sau khi dịch qua đi, sẽ có một làn sóng "ồ ạt và bùng nổ" của các nhà đầu tư Nhật Bản, những người đang phải chờ "ngoài cửa" trong thời gian vừa rồi.”
Sự thay đổi về lĩnh vực M&A trong thời gian vừa qua.
Trong 6 tháng đầu năm 2021, hoạt động M&A tại các khu công nghiệp và doanh nghiệp logistics đang được đẩy mạnh. Đây là thị trường tiềm năng và đang ngày càng phát triển.
Theo ông Masataka Sam Yoshida, xu hướng này được thúc đẩy bởi sự leo thang căng thẳng thương mại Mỹ - Trung. Theo đó, hàng loạt doanh nghiệp rời khỏi Trung Quốc để chuyển sang sang khu vực Đông Nam Á.
Đặc biệt, thị trường Việt Nam đang nổi lên so với nhiều nền kinh tế khác trong khu vực. Sự phát triển này không chỉ do ưu thế về vị trí địa lý mà còn về các chỉ số kinh tế vĩ mô chính.
Ông Masataka Sam Yoshida cho biết, các chỉ số này bao gồm tăng trưởng kinh tế cao liên tục, ưu đãi thuế thuận lợi, chi phí lao động cạnh tranh, môi trường chính trị ổn định và sự bùng nổ của thương mại điện tử,…
Ngoài ra, việc tham gia một số hiệp định thương mại tự do cũng như được lựa chọn bởi hàng loạt doanh nghiệp khổng lồ trong nhiều lĩnh vực là những dấu hiệu cho thấy sự hấp dẫn của thị trường Việt Nam về đầu tư và mở rộng kinh doanh.
“Từ đó, nhu cầu về các khu công nghiệp, cũng như hoạt động logistics tại đây lại càng lớn hơn nữa.”
Ông Masataka Sam Yoshida cũng nhận nhận xét thêm:
“Với tiềm năng như tôi đã đề cập, các nhà đầu tư sẽ không ngần ngại tham gia vào thị trường bất động sản công nghiệp và logistics của Việt Nam, ngay cả trong thời kỳ đại dịch đi nữa.”
Đã có nhiều nhà đầu tư lớn trong nước và các nhà phát triển logistics nổi tiếng trên thế giới xuất hiện tại Việt Nam.
Từ lâu M&A đã là một chiến dịch kinh doanh phổ biến khi doanh nghiệp muốn mở rộng sang các thị trường mới. Xu hướng này thậm chí còn phổ biến hơn tại thị trường Việt Nam.
Lý do mà Ông Masataka Sam Yoshida đưa ra là vì các đối tác nước ngoài của doanh nghiệp thường có nguồn lực về vốn, công nghệ và nhiều yếu tố khác nhằm đáp ứng nhu cầu trong kho bãi và logistics.
Bên cạnh đó, giai đoạn năm 2020 và nửa đầu năm 2021 là giai đoạn vô cùng khó khăn bởi sự bùng phát của đại dịch COVID-1, gây sụt giảm nghiêm trọng các giao dịch.
Tuy nhiên, ông Masataka Sam Yoshida cho biết Việt Nam vẫn tiếp tục được kỳ vọng là một trong những nền kinh tế có tốc độ phát triển nhanh nhất châu Á. Đây là một điểm sáng đáng khích lệ.
Theo ông, các nhà đầu tư đã thể hiện niềm tin vào tiềm năng lâu dài của thị trường Việt Nam hậu đại dịch thông qua các thương vụ M&A.
“Tôi thấy rằng các lĩnh vực công nghệ, chăm sóc sức khỏe và dịch vụ tài chính tương đối sôi động đối với các nhà hoạch định thương vụ. Covid-19 phần nào đã thúc đẩy nhu cầu của các dịch vụ số và công nghệ cơ bản.”
Ông Masataka Sam Yoshida cũng như các chuyên gia trong ngành gọi M&A là “mua thay vì xây dựng” (buy over build). Hiện đây là cách tiếp cận phổ biến của doanh nghiệp, nhằm nhanh chóng điều chỉnh theo "quy luật bình thường mới".
Xu hướng này không chỉ xảy ra ở những "gã khổng lồ" công nghệ, mà còn với cả những công ty phi công nghệ hay những doanh nghiệp vừa và nhỏ đang muốn mở rộng phạm vi hoạt động.
Bên cạnh đó, lĩnh vực fintech và thương mại điện tử cũng là xu hướng đang phát triển rất mạnh mẽ trong thời gian qua khi hành vi của người tiêu dùng thay đổi.
Ngoài ra, loạt startup trong lĩnh vực thanh toán số cũng như thương mại điện tử cũng đã huy động được hàng triệu USD từ các nhà đầu tư trên toàn cầu.
Các nhà đầu tư cũng rất chú ý đến ;ĩnh vực chăm sóc sức khỏe, đặc biệt với các phân ngành như dược phẩm, thiết bị bảo vệ cá nhân,…
Những thách thức và triển vọng của doanh nghiệp Nhật Bản trong hoạt động M&A tại Việt Nam
Bên cạnh những khó khăn do gia tăng cạnh tranh giữa những nhà đầu tư từ nhiều quốc gia, thì trở ngại lớn đối với doanh nghiệp Nhật Bản còn nằm ở quy định và các nguyên tắc. Ông Masataka Sam Yoshida nhận định:
“Áp lực về các tiêu chuẩn đối với doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán, ngày càng tăng chứ không hề giảm.”
Theo ông, đối với vấn đề này, các nhà đầu tư Nhật Bản nên học cách điều chỉnh linh hoạt đối với thực tiễn địa phương ở Việt Nam.
Đặc biệt, sau đại dịch, sự cạnh tranh giữa các nhà đầu tư nước ngoài sẽ ngày càng gay gắt, trở ngại này sẽ càng lớn hơn khi các hoạt động kinh tế phục hồi.
Bên cạnh đó, xét theo số lượng giao dịch, Việt Nam thuộc top 2 điểm đến M&A hàng đầu khu vực Đông Nam Á của các nhà đầu tư Nhật Bản. Tuy nhiên, thị trường này lại ít khi lọt vào top 3 nếu xét về giá trị đầu tư.
Theo ông Masataka Sam Yoshida, dù được xếp ở vị trí thấp hơn so với các nước về giá trị thương vụ, nhưng điều quan trọng là vị trí của Việt Nam đã không ngừng tăng lên trong những năm gần đây, thậm chí dẫn đầu nửa đầu năm 2021.
Một trong những thương vụ điển hình có thể kể đến là thương vụ 1,4 tỷ USD của SMBC (Nhật Bản) vào FE Credit.
“Thực tế thì đây được coi là trường hợp ngoại lệ, nhưng nhìn chung, giá trị các doanh nghiệp Việt Nam đang ngày càng tăng nhờ đà tăng trưởng của nền kinh tế đất nước.”
Ông Masataka Sam Yoshida cũng tin vào triển vọng của thị trường M&A Việt Nam về dài hạn.
Sức mạnh tâm lý của nhà đầu tư được phản ánh bởi các yếu tố cơ bản của nền kinh tế không thay đổi, cộng với sự gia tăng đầu tư vào cơ sở hạ tầng, bao gồm các lĩnh vực như logistics.
“Mặc dù Việt Nam bị ảnh hưởng bởi Covid-19 muộn hơn so với các nước khác, nhưng nhìn chung các nhà đầu tư vẫn tin rằng Việt Nam sẽ sớm phục hồi sau đại dịch”.
Theo đó, giám đốc RECOF khẳng định các khoản đầu tư vào thị trường Việt Namđang phát triển này sẽ không trì hoãn hay giảm tốc độ.
Theo Cafef